Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

Phù Giang Nguyễn Đức Tuấn

Tuan Nguyen Duc
Ðến Tôi
tháng 11 8 vào lúc 11:59 AM

 TRUYỆN VỚI HAI NGƯỜI (2)

 
Lần ấy, hai thi sĩ uống rượu ở một lều quán bên sông, mà hầu bao chỉ đủ chi chừng một xị. Rượu vào vài cốc, rồi thơ, rồi trăng làm hứng chí, nên cứ thế mà gọi rượu gọi mồi.
Cuộc vui xong chắc xin ghi nợ. Việc khó khăn vì sổ hết trang rồi. Gãi đầu tai, và cố nặn nụ cười. Mụ chủ quán mặt bành bặm trợn. Lạnh tanh thế kia ai mà dám? Lại còn đon đả: chú dùng thêm?! Ai bảo nhà thơ là không có sự hèn? Hai chàng dừa nhau, vờ nhìn nước dòng Cù |Giang sông chảy. Thơ làm sao khi lòng lo ngay ngáy? đến đây thì tất phải tịt ngòi!
Sườn đồi xa có ngôi chùa đất, dưới tàng cây in dáng thẫm nền trời. Hai chàng bèn đến đó… dạo chơi, họa may vớ được đỉnh nhang, chân đèn mà trả cho quán chủ.
Ngờ đâu tình trạng ngôi chùa “hẻo” đến nguyên sơ; hẻo đến tận nguyên từ của từ “hẻo” : Đất sét đắp lên làm bệ bàn thờ, dọc ngang vẫn còn nhiều đường nứt nẻ. Một khối đất thù lù, giật mình tưởng ai ngồi đó. À ra là ông phật chưa tô, mà cũng chưa được nặn, thế nên chẳng biết Phật gì!
Cửa từ mở hoác chẳng ngăn kẻ đến đi. Bốn bề chỉ có chum nước mẻ, còn nồi niêu thì cái sứt cái ghè. Mộng quá cao khi tưởng được đỉnh, được chuông! Hai thi sĩ toan về vô vọng.
-         A! Hừm! ăn trộm!
Ông trọc đầu đâu bỗng xộc vào trong.
-         Có gì đâu mà ăn?! Sư mà còn nói lộn
Một nhà thơ can đảm sửa ông thầy. Thấy hay, ông sư cười ha hả: “Vậy phải chăng bổn tự được hai vị đến thăm? Rất chi ư là hân hạnh! Hai ngài sắp dời chân, chẳng lẽ về tay không? Xin hãy lễ Phật trong lúc bần tăng tìm tặng vật”.
Dẫu sao cũng là bị bắt quả tang, không khéo mà thành rếch việc! Thôi đành lạy cái đống đất thu lu, cứ xem là ông Phật!
-         Xong rồi ư? Chẳng tâm thành gì cả! Chùa chỉ có vật này đáng giá
Vừa nói sư vửa cởi áo cà sa, hai tay dâng hai chàng trịnh trọng. Trong nơi thiếu sáng, cái thân trần truồng trăng trắng, qua lại lăng xăng. Quà tặng bất ngờ, làm hai “nhà” ngần ngừ. Sư nói: “Phải cảm ơn chứ! Rồi đi đi, không lính bắt bây chừ!”
Đành ôm áo cà sa, thầm nghĩ: “Mình làm gì với cái đồ quỉ này đây?! Chỉ có sư mặc nó! Không lẽ mình đi tu?”
Ông sư nằm khểnh trên tảng đá, vô tư khi gió thổi lâng lâng, trăng nhễ nhại núi rừng. Nhìn hai kẻ ôm áo vàng xuống núi, ông thầm thỉ: “Làm sao mà ta có thể tặng  các ngươi ánh trăng được nhỉ?”[1]
Hai “ông nội” lại về đến quán. Rượu thơ trăng say lúy túy càn khôn. Lúc chia tay mang cà sa ấy ra cầm.
Chủ quán ngạc nhiên: “Đây là gì thế?...Áo cà sa? Ông đi tu tự hồi nào?... Hỏi chứ sao lại không hỏi? Cái mặt ông tui còn lạ lắm sao?!... À! Mới thấy ông sư trần truồng như nhộng. Áo này không bị trộm, thì ắt là bị trấn lột, chẳng sai!”
Mặt bành chu môi hô hoán. Hai bàn tay trắng nuốt giữ chặt lấy hai chàng. Quýnh lên, ai chả muốn thoát thân, mà tay ấy sao mà to quá. Áo cà sa trình trước ánh đèn vàng, màu tươi thắm vui như thơ, đùa nghịch! Cái oan vật hình như rất thích. Hai chàng giẫy như cá mắc lưới thưa. Chui không lọt mà lui không được nữa, nên cuối cùng đành về dinh quan phủ.
Ông đầu trọc từ chùa cao hạ xuống. Tất nhiên ông không có ở truồng, mà mặc bằng thúng thủng. Vì ở truồng là phạm luật thuần phong!
Ông hiên ngang xộc thẳng đến công đường: “Này! Áo ấy là tôi cho hai đứa! Đừng có ỷ mà bày trò bắt bớ! Cho xong rồi, chúng nó biết cảm ơn!”. Sư quơ tay, rơi thúng xuống, lại truồng!
Cảnh trớ trêu: Hai “nhà” run như sốt rét, mặt mày tái mét, mắt xanh lấm lét. Còn ông kia chẳng nể sợ đất trời, vật phòng thân chỉ là cái thúng thôi.
Các quan viên cười toét đến mang tai. Cái ông sư hễ nói một câu dài, lại xoay “quần”, hình như nếu không xoay thì rát.  Xét lời nói cũng có điều nghĩa thú! Hai tên mặt mẹt, chưa có chứng gian. Có điều quá tham, cho là quơ đại (ai mà nỡ lấy, khiến người ở truồng, lõa thể tồng ngồng?). Cảnh cáo một lần! Thôi bèn cho thả!
Áo cà sa trả về sư chủ. Lại một phen năn nỉ dài dòng! “Ơ sao cơ? Áo ấy đã cho xong. Xử dụng nó chính là hai ngươi vậy!” Lòng vừa cười, vừa tức. Áo cà sa làm suýt chui vào ngục, giờ mà “dụng” nữa, thì chỉ có cách xuất gia. Trăm năm trong cõi người ta. Ông tu là phước, tui là quá ngu!
Đến đây là kể xong tiền kiếp, của một người bút hiệu Phù Vân, còn người kia nặng trĩu nghiệp phong trần, nên đặt hiệu Phù Giang tuôn bể. Tất nhiên rằng trong câu chuyện kể, tiền thân hai  chàng là sư thì không lẽ, vì ở truồng nào có dễ bao giờ!
Chuyện đi tu đã được đặt vấn đề. Phù Giang đã từng viết: “Một lần chợt mỏi bước vân du, có cánh hoa tình đậu áo sư” nói về Phù Vân như một nhà tu đích thực. Thế nhưng Ông Phù Vân bận “phi” đời, làm thơ lủ khủ; và chưa chán…, nên lên chùa là chịu thua, đi tu là chẳng thể. Còn Phù Giang “thơ ta trải sân ga chiều bôn ba bể lệ” thì bận dính mắc với trần gian. Hắn với đời vốn chung bể nước mắt, thì làm sư làm sao được. Hắn khẩn cầu rằng hãy cho tôi giữ được sự rung động, dẫu điều ấy có lúc làm tôi đau đớn chết lòng, đừng khiến tôi thành sắt đá chai cằn, cứ để đó tiếng cười và nước mắt, dẫu có xuống đến mười tầng địa ngục, hay lên trời đến tận cõi Phạm Thiên. Đối với tôi nước mắt kia là ngọc, rơi vào trần thế tự tấm lòng! Nước mắt rơi dịu dàng chia thống khổ, là cầu hoa hằng vĩnh trước vô thường.
Như thế thì hai chàng còn ở trong chợ, tương đồng những người hôm sớm bán mua.
Nhưng chuyện cũ vẫn hằng trong tâm thức. Thế nên đời vẫn là đời thơ, và chuyện áo cà sa với phong thái nhà sư vẫn lảng bảng trong hồn. Cả câu : “Làm sao trao tặng ánh sáng trăng” cũng phát huy dần ảnh hưởng. Phù Giang có khi đi giữa đồng trưa mà thấy lúa thơm trong nắng màu vàng rực, nào kém màu ánh trăng của lão sư già? Phù Vân có khi kêu lên trăng đẹp quá mà lúc đó dìu dịu ánh sáng ngày.
Tâm thức “ánh trăng” ấy có lần phát hiện những dề rêu xanh mướt trên kẽ của bức tường đá lâu đời:
                            Những dề rêu xanh mướt
                            Bám kẽ bức tường già
                            Nằm bình yên trên phố
                            Người người lũ lượt qua
                          (Bên đường )
Rêu rong bình yên nhìn ngắm mọi chuyển biến tao phùng, với muôn vạn động thái chạy đuổi, tìm cầu, đưa đời đến sự tranh đua, tranh chấp, tranh giành, tranh thắng, và rồi hỗn mang đô thị, và … chiến tranh!
Phù Giang cũng biết bức tường ấy, vì nó trên con đường mình thường đi bộ qua lại. Cũng thấy những dề rêu, nhưng chỉ thực sự gặp chúng khi nghe Phù Vân đọc thơ.
Bài thơ Bên chợ tết của PG là để cảm ơn Phù Vân vì- qua bài thơ của bạn- đã bắc cầu cho sự gặp gỡ ấy vậy.
Thời gian trôi đi, “ánh trăng” dần dần thấm ngày càng sâu vào tâm hồn Phù Giang. Rất nhiều khi Phù Giang không lũ lượt đi qua sự, vật, mà gặp chúng. Nói cách khác, Phù Giang và sự vật thường hội ngộ, tương phùng. Đọc lại bài thơ tặng bạn năm xưa ấy, mình vẫn còn thấy được hình ảnh bạn, với ánh mắt, nụ cười, với thơ và với chợ. Bài thơ tôi tặng đã thể hiện hai chúng đa đã ở ngoài. Bạn đứng cạnh đời và tôi bảo mọi người rằng họ sống hờ. Vì họ chỉ là những kẻ bán mua, sắm vui, sắm thú vì thiếu hoặc chẳng có niềm vui nội tại gì hết. Tâm hồn họ trống rỗng khiến họ cần mua ngoại vật để lấp đầy. Họ bị cuốn hút vào hấp lực của vật dục mà chẳng hề cảm nhận sự bình yên hằng hữu, mà ngay cả loài nhỏ nhoi như rong rêu cũng có thể cảm nhận được.
Bài thơ của tôi ấy đã có dư hưởng của tuổi trẻ với sự bồng bột, thể hiện qua ngôn từ, sự giản lược và đầy lý luận.
Tuy vậy, Phù Giang vẫn yêu ngày hôm ấy, phiên chợ ấy, yêu dáng vẻ Phù Vân, thơ Phù  Vân, yêu sự rung động của Phù Giang, và yêu cả bài thơ nhiều tình thiếu ý của mình. Có điều đến nay, sau hơn ba mươi năm, với bối cảnh ấy, Phù Giang yêu trong tâm thái khác, và bài thơ tặng sau đây được thể hiện rằng bạn và tôi đã vào trong, không còn ở ngoài, cạnh chợ:

                       CHỢ TẾT

                                                   Tặng Phù Vân Đặng Cước và bài thơ bức tường già
                              Chợ đời đen nghịt kẻ bán mua
                              Khắp nơi là tấp nập xô bồ
                              Khi đời ăm ắp niềm tham muốn
                              Vui thú làm sao sắm cho vừa?
 
                              Giữa chốn bôn ba người dừng ngắm
                               Tường già trăm tuổi trước nắng mưa
                               Rêu xanh kẽ đá từ lâu lắm
                               Dịu dàng đón tiễn những người qua
                               Thị tứ đêm ngày tràn náo nhiệt
                               Lòng bận nào ai biết đâu mà!
 
                               Nhưng rồi thi sĩ nói lời thơ
                               Nụ cười ánh mắt đẹp như mơ
                               Hoa vàng mai thắm lên màu lá
                               Đì đùng tiếng pháo nắng vương tơ
 
                               Thơ nay không còn người thưởng thức
                               Buồn áo đông hàn mỏi xác xơ
 
                               Hình như áo ấy nhuốm đầy thơ
                               Của trời của đất nỗi chơ vơ
                               Tình xuân riêng tặng người thương tưởng
                               Mua làm sao được giữa xô bồ?!

Như bạn thấy đấy, bài 2 này nhiều lời hơn. Âu cũng là tính khí của người già vậy.
             
                                                                Phù Giang Nguyễn Đức Tuấn
                                                                         a Trang 28-11-2013

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét